| |
Các từ Tàu Thuyền
trong một số Từ-Điển,
Bách Khoa Và Sách Sử
Vũ-Hữu-San
Bài này c̣n rất
sơ sài. Chúng tôi rất cảm ơn nếu có quư bạn góp công sửa chữa. Xin cảm ơn trước
(Email: vuhuusan@yahoo.com).
Nguồn-gốc những
tiếng căn-bản ghe thuyền
Ngôn-ngữ đóng những vai tṛ quan-trọng
trong tiến-tŕnh văn-minh.
Ngoài việc đào sới đất cát, ṃ lặn đáy biển
t́m-ṭi cổ-vật, một trong những phương-pháp mà các nhà khoa-học thường dùng
trong môn khảo-cổ-học là truy-nguyên nguồn-gốc ngôn-ngữ.
“... Những ư-kiến gây sửng sốt nhiều nhất
do những người Mỹ đưa ra. Chẳng hạn, Tiến-Sĩ nhân-chủng học Paul K. Benedict đă
truy-tầm ra được nguồn-gốc của nhiều tiếng
trước kia người ta cứ tưởng rằng người Đông-Nam-Á đă vay mượn của người
Trung-Hoa. Ông tin rằng phải đúng ra ở chiều ngược lại, những tiếng đó là
ngôn-ngữ Đông-Nam-Á cho người Trung-Hoa vay mượn. Những tiếng căn-bản đó biểu
thị sự tiến-triển của nền văn-minh như cái cầy và hạt giống, nấu nung và đồ gốm,
buá ŕu và ghe thuyền, sắt và vàng...”.
Trong bài này chúng tôi xin
đề-cập đến các từ tàu thuyền, bè, ghe, xuồng,
nóc, sơng.. qua một số Từ-Điển, Bách Khoa Và Sách Vở tản-mạn.
Truy-nguyên Danh- tự Thuyền của một số dân Á-Đông.
Ông Diệp (dchph) t́m-kiếm ra một số danh-tự về
Thuyền của một số dân Á-Đông như sau: thuyền 'boat' (Old Mon /dluŋ/, mod.
/gluŋ/, Danaw /tɔŋ2lui4/, Riang White /tjɤn\luaŋ\ /, Black /tsən\luaŋ\ /,
Palaung /rɤ2/, Wa /rɤ2/,Srê, M'nong Gar /plǔŋ/, T'eng /cəlɔŋ/, Khasi /lieng/) [
Chin. 船 chuán
(SV thuyền) | M 船
chuán < MC ʑwen < OC *lon ] (Comments: Except for the /rɤ2/ form, it is
interesting to see that the V form 'thuyền' corresponds to the /-l-/ forms in
other MK language which are cognate to that the C form
船 /chuán/)
(Chữ viết tắt: C = Chinese in general (TiếngHán
漢語) (See also:
tiếngTàu), MK = Mon-Khmer linguistic affinity (Ngữchi Mon-Khmer), OC = Old
Chinese (TiếngHán Cổ
古漢語), SV = Sino-Vietnamese (HánViệt
漢越辭匯), V, Viet.
= Vietnamese (TiếngViệt
越南話), M = Mandarin, QT (TiếngPhổthông, tiếngQuanthoại
普通話,
國語).
Ông Đỗ Thành không đồng-ư với các tài-liệu, suy
ra từ "Duy giáp lệnh" là mệnh-lệnh của Câu Tiễn, vị
vua người Việt thời Chiến-Quốc; nói rằng -
越人謂船為 “須慮”:
Việt nhân vị thuyền vi “tu lự” –
Theo Ông Thành,
người Việt thời đó không thể gọi thuyền là “tu-lự”. Sở dĩ có câu nầy là
vì vùng Giang Tô tiếng Việt (Ngô Việt) gọi thuyền là “xuy須-lùy慮”
phát âm tương đương tiếng “xuyềnh” của Quảng Đông và chữ "Thuyền" bên
tiếng Việt ngày nay.
Cho đến nay, “Duy giáp
lệnh”
được hiểu là có 2 câu mở đầu như
sau:
維甲
修內矛
Duy giáp tu nội mao
方舟航
治須慮
phương châu hàng
trị tu lự
Sau khi đối chiếu Hán Việt
– Chữ
Vuông/ cổ văn -
Việt/ Mân Việt/ Triều Châu- tiếng
Việt ngày nay,
tôi (lời Ông Đỗ-Thành)
xin trình bày
phục nguyên “Duy giáp
lệnh” của Việt Vương Câu Tiễn như sau:
Duy giáp tu nội mao
維
甲
修
內
矛
Tất
(Túi)
cả tu lại mau ===>
Tất cả tụ lại mau
Phương châu hàng
trị tu lự
方舟
航
治
須慮
Phuấn hàng
trị
tự
===>
Phóng hàng
trật tự
Như vậy "phương
châu hàng trị
tu lự" không có ǵ liên-hệ đến thuyền.
"Việt Nhân Ca" khi vua Sở dùng
thuyền ngoạn cảnh

Tóm tắt về bối cảnh
ra đời của Việt nhân ca: Lưu Hướng (刘向)
là cháu bốn đời của Lưu Giao (刘交).
Lưu Giao là em của Lưu Bang (刘邦,
256 TCN –
195 TCN) cao tổ của nhà Hán. Lưu
Hướng là tác giả của sách Thuyết uyển (说苑).
Sách có chương kể chuyện “Tương Thành Quân Thủy phong chi nhật” (襄成君始封之日).
Tương Thành Quân là Sở Tương Vương (楚襄王)
tên hiệu là Hùng Hoành (熊橫).
Trong câu chuyện có nhắc đến Ngạc Quân Tử Tích (鄂君子皙)
là vua Sở Hùng Ngạc (楚熊咢)
dùng thuyền dạo mát ngoạn cảnh thì có người chèo thuyền hát bài dân
ca Việt. Ngạc Quân Tử Tích nhờ người ghi lại và phiên dịch ra tiếng
"Sở" là bài "Việt nhân ca" hơn 2 ngàn rưỡi năm trước.
Chính
nhờ đoạn văn này mà Bài ca của người chèo thuyền Việt thời Chiến-Quốc c̣n tới
ngày nay. Từ văn bản Hán ngữ đă nhiều người dịch ra tiếng Việt. Và đây là bản
dịch có thể được coi là chuẩn, trên Diễn Đàn của Viện Việt Học:
Đêm
nay đêm nào chừ, chèo thuyền giữa sông
Ngày
này ngày nào chừ, cùng vương tử xuôi ḍng.
Thẹn
được chàng mến yêu chừ, nào chê phận thiếp long đong
Ḷng
rối ren mà chẳng dứt chừ, được gặp chàng vương tông
Non có
cây chừ, cây có cành chừ; ḷng yêu chàng chừ, chàng biết không?
Theo sự khảo cứu của Ông
Đỗ-Thành th́ Việt nhân ca là thơ lục bát của tiếng Việt, phù hợp
với câu hò của dân ca Việt. Nếu thể hiện bài ca bằng thể lục bát ngày
nay thì sẽ là:
Ḥ... ... hớ...
Năm
nầy bảo với năm xưa
Thương chàng hoàng tử thương chiều chiều xưa
Sớm chiều em hận tương tư
Mà
ai hiểu đặng tình yêu sâu đầy.
Việc khảo cứu và giải
mã bí mật của Việt nhân ca, đối với tôi (lời Ông
Đỗ-Thành, Sacramento, 12. 09) rất là
dễ bởi vì tôi biết chữ tượng hình người Hoa đang dùng vốn là chữ Việt. Khi
nghiên cứu cổ sử, tôi thường đọc theo nhiều phương ngữ khác nhau là Bắc
Kinh, Quảng Đông, Triều Châu, Hán Việt. V́ thế có thể nói, nhìn vào
Việt nhân ca là thấy được bài thơ Việt liền! Thích thú với chi tiết
2800 năm về trước, tiếng Việt đã dùng "biện-thảo" là "bảo" , "nầy"
kia, "nầy" xưa, "thương chiều chiều xưa", "em hận tương tư" v v... Nhưng có
điều tôi chưa biết "Hò... hớ" là nghĩa gì và cũng chưa bao giờ nghĩ
đến sẽ tìm hiểu "Hò......Hớ" là gì! Vậy mà Việt nhân ca bản gốc đã
làm tôi kinh ngạc và "ngộ" ra rằng "Hò... hớ" là dân ca của người Việt
khi gắn bó với sông hồ, với ghe, thuyền: Hò... Hớ nghĩa là "Hà
河" ..."Hồ
湖"
Chữ Chu
Chou và chữ Thuyền
Chhuan tượng h́nh
Người Trung-Hoa sử-dụng chữ tượng h́nh. Từ xưa
người Trung Quốc viết trên mai rùa, thẻ tre, trúc hoặc trên
lụa bạch...
Joseph Needham khi viết bộ sách "Science
and Civilisation in China", (soạn thảo với sự cộng tác của Wang Ling và Lu Gwei Djen),
Volume 4 Physics and Physical Technology Part III: Civil Engineering and Nautics,
(Cambridge at the University Press,1971),
bàn-luận về sự tượng-h́nh của các chữ Chu
(chou) và Thuyền (chhuan) qua các h́nh sau:

Chữ Chou & chữ Chhuan tượng-h́nh một cách rơ-ràng về
kiến-trúc và cách sử-dụng Thuyền Trung-Hoa. (Trang 439).
Phân-tích ra:
船 Chữ “chuán” (chhuan) gồm có 3 bộ
ghép lại : bộ Chu (hay Châu: chou), bộ Nhi và bộ Khẩu (bộ Chu ở bên trái viết
trước, bộ Nhi ở bên phải nằm trên viết sau, cuối cùng là bộ khẩu ở dưới).
Chu
舟:
thuyền, đ̣ và Thuyền
船: thuyền, tàu,
ghe, đ̣; thuộc bộ Chu
舟
Chữ viết và hội họa cùng chung một nguồn gốc,
cứ xem lục thư xuất phát từ chữ tượng h́nh th́ đủ biết.
Joseph Needham cũng bàn về cách kiến-trúc
thuyền Trung-Hoa qua tự-dạng như sau (mục Shipping, trang 391):

Joseph Needham cho biết thuyền Trung-Hoa
truyền-thống 2 đầu mũi, lái đều phẳng, khác hẳn ghe thuyền Việt-Nam và các nền
văn-minh khác.

Theo Việt-Nam Tự Điển do Hội
Khai trí Tiến Đức xuất-bản ở Hà Nội
những năm 1931-1937:
Tàu là thứ thuyền lớn chở được nhiều
người, nhiều đồ: Tàu sông, Tàu bể. Nghĩa rộng: tiếng gọi chung những cái để chở
nhiều người, nhiều hàng: Tàu hoả, Tàu bay.
Thuyền là đồ dùng để chở trên mặt
nước: thuyền chở khách. Thuyền đánh cá.
Bè là (do) tre, gỗ, nứa, ghép lại thả
sông ( đi biển)
Ghe tức là cái thuyền
Xuồng là thứ thuyền nhỏ không có mui,
thường buộc theo tàu hay thuyền lớn.

Title |
Từ điển tiếng Huế: tiếng Huế, người Huế, văn hóa Huế |
Author |
Minh Đức Bùi |
Publisher |
Nhà xuất bản Văn học, 2004 |
Theo Ông Bùi Minh Đức
Ghe
Thuyền nhỏ, thường bằng tre đan phết dầu rái, rất nhẹ. Các ghe của xứ Đàng Trong
từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 19 phỏng theo mẫu ghe của người Chàm và ngay chữ “ghe”
của Việt Nam cũng có thể phát xuất từ chữ “Gai” của Mă Lai. (theo Li Tana, Xứ
Đàng Trong, 1999).
Ghe cộ
ghe thuyền (“Cộ” là “cỗ như cộ xe. Cộ ghe là chiếc ghe.
Ghe gọ
ghe thuyền. “Gọ” cũng là một loại ghe. Từ ghép cùng nghĩa.
Ghe lanh canh
ghe chài nhỏ thường ví cá ở Sông, đánh tiếng lanh canh cho cá vào lưới rồi kéo
nhỏ lại gần. Cũng là thứ ghe nhỏ bán hàng ăn cháo, bún, trái cây, trứng lộn,
v.v. chung quanh các thuyền có khách nghỉ đêm trên sông Hương.
Ghe tàu
thuyền bè (Đi ghe tàu sợ sóng lớn).
Thuyền rồng: là
thuyền trước mũi có đầu rồng, đó là thuyền vua ngự. Từ đời vua Gia Long đến đời
vua Tự Đức. Từ đời vua Gia Long đến đời vua Tự Đức đều có thuyền rồng, đẹp nhất
là chiếc Lợi Thiệp và thuyền thường có nội cung theo hầu. Chiếc thuyền ngự không
chèo, phải có thuyền trần đi trước dắt thuyền ngự. Thuyền trần thường rất dài và
cũng có đầu rồng đuôi phượng và cũng sơn son thép vàng. Mỗi lần độ ba hay bốn
chục chiếc, mỗi chiếc quân lính đội Long Thuyền độ 40 người chèo. Chánh và Phó
Chương vệ đi hai bên với hai thuyền con để đốc suất. Lính nón dấu đỏ, thuyền sơn
son thép vàng, đi một dăy dài, giữa ḍng nước trong xanh, rất nghi vệ (theo cụ
Ưng Gia B́nh Thúc Giạ Thị).
Thuyền ngự:
thuyền hoa lệ và đồ sộ, chạm trổ, sơn son thép vàng, bên trong chia thành từng
gian, gian của nhà vua, gian của các bà cung phi, gian của nô tỳ thái giám. Bề
rồng chừng bốn thước bề dài có trên 30 thước, phía trên lợp gỗ bào láng, nhuộm
vàng, tường và cửa đều làm bằng thứ gỗ nhẹ. Thường là nhiều thuyền kết lại với
nhau làm thành như một lâu đài, có cả cột cờ với lá vàng. Thuyền rồng thường
không có lính chèo nhưng do 6 hoặc 8 chiếc khác kéo, mỗi thuyền có chừng năm sáu
chục lính Long Thuyền chèo. Ngoài ra c̣n có một chiếc thuyền c̣n dùng để liên
lạc giữa thuyền Ngự của vua với các quan theo hầu (theo Bửu Kế).
Hai
Ông Lê-Văn-Đức và Lê-Ngọc-Trụ cho các nghĩa như sau:
THUYỀN
dt. Clg. Thoàn, ghe, tàu vật dụng đi sông đi biền: Bơi thuyền, chèo
thuyền, chiến thuyền, đi thuyền, hải thuyền, ngồi thuyền, thương thuyền: thuyền
dời nào bến có dời, Khăng-khẳng một lời quân tử nhứt ngôn CD.
Thuyền bác-vọng
dt. Thứ
thuyền đi biền; thuyền câu ở biền.
Thuyền bát-nhă
dt. (Phật): Sự giác-ngộ, cứu rỗi, siêu-độ chúng sinh thoát ṿng
tội lỗi ở cơi đời.
Thuyền bầu
dt. Ghe bầu, thứ thuyền chở đi biển, phía sau lái nở to ra: Thuyền bầu
trở lái về đông, Con đi theo chồng mẹ ở cùng ai? CD.
Thuyền bè
dt. (đ): Ghe thuyền, tiếng gọi chung vật chở đi sông đi biển: Thuyền
–bè ǵ ốp quá!
Thuyền câu
dt. Ghe Câu, chiếc thuyền nhỏ, mui ngắn thấp, dùng đi câu ở sông ở biển.
Thuyền cước
dt. Tiền chuyên chở bằng ghe bằng tàu.
Thuyền chài
dt. Chiếc
thuyền to lớn hơn thuyền câu, dùng để đi chài ở sông.
Thuyền-chủ
dt.
Chủ tàu, chủ chiếc
thuyền.
Thuyền dưa
dt. Clg. Que-thuyền, chiếc thuyền nhỏ giống như trái dưa bổ hai thả dưới
nước.
Thuyền-lơn
dt. Nh. Thuyền-bè.
Thuyền-mành
dt. Ghe chài.
Thuyền nan
dt. Ghe đương bằng nan tre.
Thuyền-phụ
dt. Bến tàu, bến ghe, nơi thuyền đỗ.
Thuyền-rồng
dt. Thứ thuyền vua đi, mũi có đầu rồng, lái có đuôi rồng gỗ chạm.
Thuyền t́nh
dt. Đường t́nh ái, sự yêu-đương, t́nh chồng vợ: Sóng sắc nhận thuyền
t́nh; Linh đinh một chiếc thuyền t́nh, Mười hai bến nước gởi ḿnh vào đâu CD.
Thuyền-từ
dt. (Phật): Ḷng từ-bi độ người qua khỏi bến mê: Thuyền từ những rắp sang
sông bể HXH.
Thuyền-trưởng
dt. Quan tàu, người chỉ-huy việc lái một chiếc thuyền và đầu thủy thủ.
Thuyền xưởng
dt. Xương đóng tàu, trại đóng ghe.
Sơng
dt. Thuyền nan, xuồng nhỏ đương bằng nan tre. Chiếc sơng.
Từ-Điển Hồ-Ngọc-Đức
GH
dt. Một phụ âm kép, chỉ đứng trước các nguyên âm.
GHE
dt. Thuyền, vật trũng ḷng chở người chở vật trên mặt nước: Chèo ghe, đi
ghe; Bớ chiếc ghe sau, chèo mau anh đợi, kẻo khuất bong bần mất mọi thuyền
quyên CD.
Ghe Bất-Măn
dt. (lóng)
Thuyền đi sông
đóng thiếu thước tất quy định, khỏi đóng thuế.
Ghe Bầu
dt.
Thuyền đi biển, dùng
chuyên chở, khoang sau bầu to và cao: Ghe bầu dọn dẹp kéo neo, Mấy chú bạn
chèo bắt cái ḥ khoan CD II (lóng) Đàn bà chửa: Đợi chiếc ghe bầu đi với.
Ghe Be
dt.
Ghe lườn có cơi thêm
ván cho hai be cao lên để chở được nhiều hơn.
Ghe cà-vom
dt.
X. Cà-vom.
Ghe cá
dt.
Ghe có lườn rộng và
sâu để chứa nước đựng cá đi xa.
Ghe câu
dt.
Xuồng hay thuyền nhỏ
dùng đi câu cá, câu tôm.
Ghe cộ
dt.(đ)
: Thuyền bè, tiếng dùng chung cho ghe thuyền: Ghe cộ ǵ ốp áp quá!
Ghe cui
dt.
Ghe ngắn đ̣n, không có
bản lồng, mũi lái bằng nhau.
Ghe cửi
dt.
Thuyền nhỏ mũi nhọn,
nhẹ chèo, dùng ở gần cửa biển.
Ghe chài
dt.
Ghe to dài, mui hơi
bằng, chỉ chống đi hoặc nhờ tàu dắt.
Ghe đ̣
dt.
Đ̣ dọc.
Ghe cuộc
dt. nh.
Ghe cộ và thuyền bè.
Ghe giàn
dt.
Thuyền to có đâm
xà-bang đề chở thật nhiều đồ (X. Đâm xà-bang).
Ghe hàng bổ
dt.
Thuyền to gần bằng ghe
chài, chở hàng hóa đi bán ở các chợ.
Ghe hầu
dt.
Thuyền quan hoặc nhà
giàu đóng đẹp.
Ghe lê
dt.
Thuyền chờ lính dung
vào việc binh (xưa).
Ghe lồng
dt.
Ghe dáng như ghe chài,
nhưng nhỏ và mui bầu.
Ghe lưới
dt. Thuyền
đi lưới cá.
Ghe lườn
dt. Ghe
thon dài không mui.
Ghe mỏ vạch
dt. Thuyền
mủi vớt như mỏ cách vạch thơ may.
Ghe nan
dt. Thuyền
bằng nan tre đương dày.
Ghe ngo
dt. Xuồng
độc-mộc, thứ ghe bằng một thân cây khóet trũng, mũi và lái quớt cao lên.
Ghe ô
dt. Nh. Ghe
lê.
Ghe rồi
dt. Ghe của
lái cá, đi đón các ghe cá chịu mối bán cho vựa.
Ghe thuyền
dt Nh. Ghe
guộc và thuyền bè.
Ghe trẹt
dt. Thứ
thuyền to, rộng, mạnh chở; khi cần mới để mui giả lên.
Ghe trường-đà
dt. Ghe bầu
to.
Ghe vạch
dt. Nh. Ghe
mỏ vạch.
Ghe vẹm
dt. Thuyền
quan hồi xưa, có sơn ô và chạy bèo đỏ.
Ghe vợi
dt. Thuyền
nhỏ chạy kèm theo thuyền to, chực được mướn chở đồ.
GHE
dt. clg. Ṃng-đóc hay Ṃng-đốt, một bộ phận trong âm hộ.
GHE
tt. Nhiều. lắm, có thể có.
Ghe ngày
trt. Có
ngày, có thể xảy ra một ngày nào đó: Ghe ngày nó bị đánh chứ chẳng không.
Ghe phen
trt. Lắm
phen, nhiều lần: Ghe Phen bị cảnh cáo mà không.
Đại Nam quốc
âm tự vị (1895) của
Húnh Tịnh Paulus Của ghi 28 tên ghe
Húnh Tịnh Của (Quắc Âm Tự Vị, trang 425):
Thuyền. c.
Ghe thuyền, đồ đóng có
thể mà đi sông
đi biển.
— bè.
Id.
(tiếng đôi)
— bè.
Id.
Ghe —.
Id.
Hải —.
Thuyền đi biển, ghe biển.
Giang —.
Ghe sông.
Xuống —.
Xuống đưới ghe.
— bác vọng.
Một thứ ghe biển, ghe câu.
Chiến —.
Ghe đánh
giặc, ghe chiến, tàu chiến.
Hỏa —.
Tàu lửa,
tàu khí.
Giá hải —.
Ghe biển,
ghe cửa.
— hải đạo.
Thuyền vận binh lương theo đằng biển.
— nan.
Ghe đương ráp bằng nan tre.
Hàng —.
Hàng quân lính.
Bổn —.
Hàng quân lính.
— Trung.
Vệ nhứt.
— tả.
Vệ nh́.
— hữu.
Vệ ba.
Cuốn từ điển tam ngữ Việt – Bồ
– La
Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên được ghi nhận cho đến giờ
là cuốn từ điển tam ngữ Việt – Bồ – La (Tiếng Việt – Bồ Đào Nha – Latin) với tên
Latin là Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum đă được Alexandre de
Rhodes biên soạn sau khi ông ở Việt Nam 12 năm và được in tại Roma vào năm 1651
lúc Alexandre ở châu Âu.
Từ điển Việt-Bồ-La với 8000 mục từ, trong đó có các mục
Thuyền, Tàu, nhưng (thiếu) các mục Bè, Ghe, Xuồng... không có.
Các Ông Thanh-Lăng, Hoàng-Xuân-Việt, Đỗ-Quang-Chính đă dịch
ra Việt-ngữ, tên sách là Từ Điển An Nam - Lusitan - La Tinh



Đại
nam thực lục,
tập một
ghi lại các thuyền chiến Chúa Nguyễn
trong một cuộc thao diễn thủy quân:
Thao diễn thủy quân : Sai thuyền hải
dạo của các co dội : (4 thuyền Khanh Nhất, Minh Nhất, Minh Nhị,
Minh Tứ co Tả thủy thuyền An
Triền, thuyền Thạch B́nh, thuyền Hiền Nhất, thuyền Trà Nhất co Tiền thủy, thuyền
Nội Tráng, thuyền Tá, thuyền
Minh Nhị, thuyền Giao Thủy, co Tả dực, thuyền Tả Hùng, thuyền Bạch Câu, thuyền
Định Nhị, thuyền Nhuệ Nhất co
Tiền dực, thuyền Van Hà, thuyền Kiên Tam, thuyền Trạch Nhất, thuyền Cuờng Nhất
dội Tả thủy, thuyền Minh Nhất,
thuyền Triều Tôn, thuyền Tráng Tam, thuyền Hữu Hung dội Tiền thủy, thuyền Tráng
Nhị, thuyền Tráng Nhất, thuyền
Tráng Tam dội Tả bính, thuyền Cổ Liễu, thuyền Đại Nhất, thuyền An Xá dội Tiền
bính, Nội Thủy nhất dội th́
thuyền Kính, thuyền Tả trung kính, thuyền Nội Kiên, Nội thủy nhị dội th́ thuyền
Khang
Nhất, thuyền Đại Nham, thuyền Trí, Nội
Thủy tam dội th́ thuyền Tiệp Nhất, thuyền Hải Châu, thuyền Đinh Nhất, Nội
Thủy tứ dội th́ thuyền
Địch Cần, thuyền Khánh Mân,
thuyền An Nội, Nội Thủy ngu dội th́ thuyền
An Nhất, thuyền Kiên Nhị, thuyền
Kiên Nhất, Nội Thủy lục dội th́ thuyền
Tả thủy, thuyền Trung Thủy,
thuyền Hữu Thủy, Nội Thủy thất dội th́ thuyền
Tả Đột, thuyền Gia Nhất, thuyền
Hữu Đột, Nội Thủy bát dội th́ thuyền Tiệp Tam, thuyền Gia Nhị, thuyền Nghị
Giang, thuyền Gia tam, Nội Thủy
cửu dội th́
Tân Hầu Thủy, thuyền Kiệu, thuyền Hữu
trung kính, Nội Thủy thập dội th́ thuyền Tân Khang, thuyền Trung Kính,
thuyền Chạo, Nội Thủy thập nhất
dội th́ thuyền Tiệp Nhị, thuyền Xuân, Nội Thủy thập nhị dội th́ thuyền Bác Vọng
nhị, thuyền Thạch Than, thuyền
Nam phù, Nội Thủy thập tam dội th́ thuyền Vơ Nhất, thuyền Trà Nhị, thuyền Đột
Nhất, thuyền Thủy Nhị, co Hữu
Thủy th́ thuyền Quảng Nhất, thuyền Thủy bạn, thuyền Tín, thuyền Minh Tam, co
Hậu thủy th́ thuyền An Tam,
thuyền An Nhất, thuyền An Nhị, thuyền Phú Luong, co Hữu dực, th́ thuyền
An Nhị, thuyền Kiên Nhị, thuyền
Nội Hùng, co Hậu dực th́ thuyền ỷ Bích, thuyền Nghia Nhất, thuyền Hữu Hầu,
thuyền Trạch Nhị, dội Hữu Thủy
th́ thuyền Tả Hầu, thuyền Kiên, thuyền Nhuệ nhị, thuyền Hậu trạch, dội Hữu bính
th́ thuyền Thắng Nhị, thuyền
Thắng Nhất, thuyền Thắng Tam, dội Hậu bính th́ thuyền
Hà Lộc, thuyền Phúc Kinh, thuyền
Đại Lộc, dinh Hậu thủy th́ thuyền Phù Nam, thuyền Quảng Nhị, thuyền Nghia Nhị,
thuyền Hiền Nh́), theo thứ tự
bày hàng từ Phủ Cam trở xuống, hễ nghe hiệu trống th́ mở thuyền chèo nhanh,
dến mé sông Nội Thủy th́ quay
về. Chúa tới xem, thuởng bạc tiền theo cấp bực.
GHE XUỒNG Ở NAM BỘ
1.Đặc điểm phân loại
Ghe
xuồng ở Nam Bộ theo Ông
Nguyễn-Thanh-Lợi:
Ghe xuồng ở Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều
kiểu loại, tên gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và
phương thức hoạt động ta có thể tạm phân chia thành những loại khác nhau.
Ông Nguyễn-Thanh-Lợi viết:
Huỳnh Tịnh Của
định nghĩa về xuồng như sau: "Ghe nhỏ, ghe làm chơn, thường ḍng theo
ghe lớn” [2]
. Về xuồng, ta thấy có các loại phổ biến
như xuồng ba lá, xuồng năm lá, tam bản, xuồng vỏ g̣n, xuồng độc mộc, xuồng chèo,
xuồng máy…
Xuồng ba lá có
chiều dài trung b́nh 4m, rộng 1m, sức chở từ 4-6 người. Xuồng làm bằng ba tấm
ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều
nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng 5 lá.
Xuồng tam bản
giống như ghe câu, nhưng lớn hơn, có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. Có loại
thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be không chỉ có 3 mà có
thể là 5, 7, hoặc 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa thường sử dụng để đi lại
trên sông rạch. Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản c̣n dùng để đi câu tôm, câu rổi hoặc
dùng làm xuồng cào tôm cá. Tam bản xuất xứ từ tiếng Hoa “xam pản”,
người Pháp phiên âm thành “sampan”.
Ghe tam bản, xuồng bơi, xuồng chèo ở Cần Thơ đều là
hai chèo, ba chèo, bốn chèo. Không phải một một chèo lái, một chèo mũi như ở các
vùng khác.
Xuồng vở g̣n
(giống vỏ trái g̣n) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản (giàn đà, cong và ván be),
kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán.
Xuồng độc mộc
(ghe lườn) do người Khơme làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng
ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Campu chia và Lào.
Xuồng câu tôm:
giống kiểu kiểu ghe độc mộc của người Khơme dùng giăng câu thả lưới ở ven sông
cạn rạch nhỏ.
Xuồng bơi (2 mái
chèo) lớn hơn xuồng tam bản.
Xuồng máy gắn
máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ
biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
Về ghe dùng để vận chuyển hàng hóa thường là
những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe bầu là loại
ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng ph́nh to, có tải trọng tương đối lớn, chạy
buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và
đi biển dài ngày.thường dùng đi đường biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là
ghe trường đà.Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mă Lai, do người Việt trong
quá tŕnh Nam tiến tiếp thu được của người Chăm.Trước năm 1945, hàng năm các lái
buôn lớn từ miền Trung chở cá, mắm cá ṃi, chủ yếu là nước mắm cá cơm của vùng
Phan Thiết vào bán trong Nam, rồi mua gạo thóc chở ra bằng loại ghe này.
Ghe cửa: nhỏ,
mũi nhọn, nhảy sóng tốt, chạy buồm vững vàng; có thể ra vào các cửa sông dễ
dàng, hay chở hàng đi men theo bờ biển.
Ghe lồng (hay
ghe bản lồng): loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, ḷng ghe
được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe
này dùng vận chuyển hàng hóa đi dọc bờ biển.
Ghe hàng bo là
loại ghe lồng nhỏ, đi đường ngắn trong nội địa
Ghe giàn : có
kích thước khá lớn, hai bên hông trổ cánh cao để chở được nhiều hàng hóa
Ghe be không mui
hoặc có mui nhỏ chệch về phần lái khoảng 1/4 chiều dài của ghe, có thêm hai ghe
bên sườn để tăng thêm sức chở.
Ghe chài: to và
chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai
tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hóa, phần sau là chỗ nghỉ
cho người đi ghe. Một mui rời phía sau pḥng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm.
Ghe có sức chở từ 150-200 tấn, loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe
chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không như kiểu
chèo ghe b́nh thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho người
đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước. Thường dùng chở lúa gạo, than
củi.
“Chài” xuất xứ từ tiếng “Pok chài” của người Triều
Châu, Pok: nhiều, chài: tải, ghe chài là loại ghe có sức tải
lớn.
Ông
Vương Hồng Sển,
Ghe chài gọi đầy đủ là ghe bốc chài,
gốc từ tiếng Khơme “tuk pokchay”, tuk: ghe, thuyền (Khơme); pokchay:
chở nhiều (Triều Châu) [3]
Ghe cà vom: nhỏ,
dài, có mui nhỏ nhưng khác ghe lườn và ghe ngo.
Ghe cá, hay c̣n
gọi là ghe rỗi ,chuyên chở sá đồng từ miền Tây về Sài G̣n. Đặc biệt mực
nước trong ghe luôn cân bằng với mực nước sông bên ngoài để giữ cá luôn sống và
ghe cũng luôn vững. “Anh đi ghe cá mũi son, để em đan đệm cho ṃn mười ngón
tay”
Ghe bè to và
sâu, giống như chiếc xà lan, có mái che, tải trọng lớn, người chèo có thể đi lại
trên mui, dùng chuyên chở hàng hóa trên sông. Loại ghe to, mau bán tận
Campuchia.
Ghe lưới :giống
như chiếc thuyền độc mộc, thân dài, thon, mũi nhọn. Đây là loại ghe của người
Khơme.
Ghe cào tôm: đầu
mũi lài và khá phẳng, có bánh lái gặp bên hông, dáng nhỏ. Loại ghe này thường
dùng cào tôm vào ban đêm.
Ghe mỏ vạch: mũi
vớt cao lên như cái vạch của thợ may.
Ghe cui: ngắn,
mũi và lái tương đối bằng, không nhọn như các ghe khác. Dùng chở củi, lá lợp
nhà.
Ghe ngo (tuk
ngua): loại ghe nhiều màu sắc của dân tộc Khơme, thường dùng trong bơi đua trong
các lễ hội. Ghe làm bằng cây sao, dài 10m trở lên. Ghe không mui, ở đầu mũi chạm
h́nh rồng, rắn, phụng, lân hoặc voi, sư tử, ó biển. Mỗi chiếc có thể chở từ 20
đến 40 tay chèo, xếp thành hàng đôi, một người cầm lái và một người cầm mũi.
Ghe điệu: mũi
lái chạm trổ, kèo mui thường sơn son thếp vàng, bên trong lót ván trơn bóng, có
chỗ nấu nướng, đủ tiện nghi để hút á phiện cho giới nhà giàu.
Ghe hầu: sang
hơn ghe điệu, dành cho cai tổng, tri phủ, tri huyện. Ban đêm ghe thắp sáng không
phải v́ mục đích soi đường, mà để báo hiệu cho biết là ghe của quan. Một đoạn
trích của Huỳnh Minh cho ta thấy h́nh ảnh của chiếc ghe hầu ngày xưa: “Khác với
những ghe thường, ghe hầu được đóng vẻ đẹp đẽ, sang trọng hơn: sơn son thếp
vàng, đầu rồng đuôi phụng, trước mũi hai chèo, mui ghe lộng lẫy, bên trong trang
trí rất đẹp như một pḥng khách trên nhà, nào chiếu bông nẹp điều, gối dựa vải
màu sặc sỡ, đồ lệ bộ, ống điếu b́nh, văn án thấpv.v…Ban đầu chỉ có loại quan
chức mới đi loại ghe này, về sau các nhà giàu có, dư dả cũng đua nhau sắm ghe
hầu, như kiểu đổi Citroen con cóc để sắm Dodge hay Mercédes đi cho oai” [4]
Ghe sai: c̣n gọi
là ghe khoái, nhỏ, chèo nhẹ, dùng vào việc quan.
Ghe quyển: có
mui che từ đầu đến cuối ghe, dùng để chở quân lính.
Ghe lệ hoặc
ghe ô: dùng vận chuyển lính hay quân cụ. Những chiếc dành cho chỉ huy
thường được chạm trổ toàn thân rất tinh xảo. Loại này thường được sơn đỏ nên
cũng gọi là ghe son hay ghe vẹm.
Ghe trẹt (trẹt):
không mui, đáy bằng, hai đầu ghe đều bằng để chở trâu ḅ.
Ghe vợi: ghe
nhỏ, cột theo sau những chiếc ghe lớn để chuyển hàng hóa vào bờ.
Vỏ lăi: mũi ghe
bằng, dài khoảng 9m, thành ghe thấp, bề ngang hẹp.
Tắc ráng: thường
dài hơn vỏ lăi, mũi nhọn, chạy rất nhanh (chiếc Speedo do Kiên Giang Composite
chế tạo có thể chạy đến 60km/giờ). Chiếc ghe đặc biệt xuất hiện từ năm cuối 1959
ở địa danh mà cả xóm, ấp, chợ và con rạch đều mang tên Tắc Ráng (nay là khóm
Vĩnh Viễn, phường Vĩnh Hiệp, thị xă Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang).
Ngoài ra, ở mỗi địa phương cũng có những loại ghe phù
hợp với điều kiện sông nước và nhu cầu sản xuất, đi lại trong vùng. Một số loại
ghe có tiếng như:
Ghe câu Phú
Quốc (Kiên Giang) có buồm, có 5 cặp chèo, dùng để đánh bắt thuỷ sản.
Ghe cửa Phú Quốc
để chở thuỷ sản và mắm.
Ghe Cần Thơ:
lớn, dài, tiện cho việc đi sông.
Ghe cửa Bà Rịa
để chuyên chở thuỷ sản
Ghe lưới rùng Phước Hải
(Long Đất, Bà Rịa- Vũng Tàu) dùng đánh bắt thuỷ sản.
Ghe Cửa Đại:
dùng đánh bắt trên biển, chuyên chở hàng hóa đi biển hoặc trên các con sông lớn.
Loại ghe có đặc trưng riêng, khá nổi tiếng, do những thợ thủ công B́nh Đại (Bến
Tre) đóng. Ngày xưa, vùng này có mối giao lưu mua bán với Mỹ Tho, Sài G̣n, G̣
Công, Vũng Tàu, Bà Rịa, Phan Thiết. “Khác với ghe Cần Đước mũi ngắn, lườn rộng,
ghe Vàm Láng (G̣ Công) mũi nhọn mà cao, lườn dẹt, ghe Ḥn (Phú Quốc) của miền
tây mũi đứng, lườn rộng, thân dài, ghe của B́nh Đại- thường được giới sông nước
gọi là ghe số 14 mũi đen- cao vừa
phải,
lườn rộng, thân vững, đi biển hoặc chuyên chở trên sông đều tốt, chịu nhảy sóng,
mạnh sức chở. Ghe cửa B́nh Đại bánh lái đẹp và dài, có hai buồm, có trục cuốn,
buồm đánh bằng lá buôn đan( tức một loại lá cọ, người ta quen gọi là đệm buồm) “ [5]
Ghe Cần Đước (Long An) dùng đánh
bắt cá(đóng đáy, chài cá), chuyên chở hàng hóa trên các tuyến sông. Loại ghe
lớn, chạy nhanh, chở khoẻ, có dáng đẹp, nhưng chỉ sử dụng tiện lợ tṛn sông rạch
v́ lườn tṛn, nhảy sóng kém. Mũi và lái đều nhọn và nhô cao, chậu mũi vàchậu lái
cong tṛn, bánh lái to và cao, cần lái nằm ngang quá mũi ghe. Ghe Cần Đước mũi
sơn màu đỏ tươi, lườn màu xanh, hai mắt tṛn xoe, tṛn đen và to, thường gọi là
“đôi mắt đảo mèo” [6]
Ghe ai đỏ mũi trảng lườn
Phải ghe Gia Định xuống vườn thăm
em?
Ngoài ra, tuỳ vào mục đích sử dụng mà ghe xuồng ở Nam
Bộ có những tên gọi khác nhau, như dùng để giăng câu th́ gọi là xuồng câu
; đánh bắt th́ có ghe lưới, ghe đáy; đưa khách trên sông th́
gọi ghe đ̣ (đ̣ ngang, đ̣ dọc; đ̣ chèo, đ̣ đạp, đ̣ máy) ; dùng
buôn bán hàng hóa th́ có ghe hàng…
2. Nghề đóng ghe
Từ cuối thế kỷ XVIII, ở đất Gia Định- Đồng Nai, ngành
đóng và sửa chữa tàu thuyền đă ra đời, phục vụ cho nhu cầu vận chuyển đường thuỷ
ngày càng lớn của vùng đất này.”Ở ngă ba sông Nhà Bè thuộc huyện Phước Long, tục
gọi phường Thương Đà, trước kia tàu thuyền của phương Bắc đến buôn bán, phàm
thuyền bị nát, bị ṛ phải sửa chữa hoặc đóng thuyền mới, tất do chỗ này” [7].
“Luỹ cũ Trao Trảo ở huyện Long Thành năm Canh Tuất (1790) đầu đời trung hưng,
đắp thành luỹ, đóng tàu thuyền” [8]
Ở Nam Bộ có nhiều “ḷ” đóng ghe nổi tiếng, thành ra
những trường phái riêng, có thể kể như: ghe B́nh Đại, ghe Cần Đước, ghe Bà Rịa,
ghe Phú Quốc…
Trước Cách mạng tháng Tám- 1945, tại B́nh Đại có các
trại ghe Bắc Hải ở Thọ Phú và ghe Đông Hải ở Phước Thuận chuyên đóng những ghe
cửa lớn vận chuyển hàng hóa đi buôn với các tỉnh cực Nam Trung Bộ, nổi tiếng một
thời. Thợ thủ công ở Vũng Luông (Thọ Phú- Thới Thuận) và vàm Bà Khoai là những
nơi có tay nghề cao. [9]
Tại Cần Đước đă h́nh thành nên hai trung tâm đóng ghe,
một ở chợ Kinh và một ở vàm Cầu Nổi với những trại ghe tiếng tăm như Hiệp Phát,
Hiệp Lợi, Trần Văn Chà (sau đổi là Tân Hưng) ở chợ Kinh; Năm Châu, Bảy Thạch…ở
Phước Đông hay có thể kể thêm Hiệp Đồng, Hiệp Hoà ở Tân Tập (Cần Giuộc) [10]
Từ đầu thế kỷ XX, nghề đóng ghe xuồng ở Cần Thơ đă
phát triển. Lúc đầu chỉ vài hộ, rồi dần dần trở thành làng nghề, mang tính
chuyên nghiệp, cha truyền con nối. Nổi tiếng nhất là ở Ngă Bảy (Phụng Hiệp). Ở
Vàm Xáng, Phong Điền, thị trấn Cái Răng (Châu Thành) cũng là những làng nghề
đóng ghe xuồng danh tiếng.
Ghe đóng ở Cần Thơ nổi tiếng kiểu dáng thanh mảnh, mũi
nhọn, nhảy sóng tốt. Phong Điền là nơi chuyên đóng ghe hầu với kỹ thuật chạm trổ
rất khéo.
Ở thành phố Hồ Chí Minh có làng đóng ghe cầu Rạch Ong
nằm hai bên bờ rạch Ong, gần ngă ba của con rạch này và kinh Tẻ, thuộc địa bàn
phường Tân Hưng (quận 7) và phường 1 (quận 8). Làng nghề này h́nh thành khoảng
năm 1962, do những người thợ từ Cần Đước, Cần Giuộc (Long An) mang đến. Trọng
tải của loại ghe Cần Đước đóng tại đây có nhiều cỡ, khoảng từ 30-200 tấn. Gần
đây, làng nghề chủ yếu đóng các loại tàu kéo, tàu ủi và xuồng thông với sức chở
từ 500kg đến 3 tấn, và sửa chữa các loại ghe thuyền khác nhau. [11]
Ở An Giang, nghề đóng ghe xuồng ngày càng phát triển ở
một số làng xă như: Mỹ Hiệp, Mỹ Luông, Chợ Thủ (Chợ Mới), B́nh Mỹ, B́nh Long
(Châu Phú). Ghe xuồng có giá rẻ, dễ mua sắm, kiểu dáng luôn được cải tiến.
Tại Bà Rịa- Vũng Tàu, các trại ghe tập trung chủ yếu ở
B́nh Châu, Phước Bửu, Long Hải, Phước Lễ, Phước Tỉnh, Phước Hải, Vũng Tàu…
Ở Vĩnh Long hiện c̣n vài trại ghe nổi tiếng, do cha
truyền con nối nhiều đời, như trại ghe Năm Danh, Phước Thành, Năm Sên, Thanh Hải
ở Trà Ôn; trại ghe Ḥa Hiệp tại Cầu Mới; trại ghe ở ấp Thanh Tân và Thanh Khê xă
Thanh B́nh, huyện Vũng Liêm… [12]
3.Phương thức hoạt động
Ngày xưa, việc lưu thông của ghe xuồng trên sông đă
được nhà nước đặt thành những luật lệ với những quy định cụ thể:”phàm ghe thuyền
đi bất luận gặp gió nước thuận hay nghịch, khi đi gần gặp nhau th́ phải hô là
“bát” (tục thường ghe đi phía tả gọi là “cạy”, đi phía hữu gọi là “bát”) th́ ghe
ḿnh đi qua phía hữu, để cho thuận lái thuận sào dễ điều khiển mà tránh nhau.
Nếu ghe nay đă hô “bát” mà ghe kia c̣n đi tới phía tả không tránh để cho đụng
nhau hư hỏng, th́ lỗi ấy về ghe không tránh kia. Lại trong trường hợp ấy có kẻ
biện chiết chưa chịu khuất phục, th́ phải xét ghe nào chở nhẹ hơn và đi thuận
ḍng nước, thừa thế ấy chạy mau phải đụng ghe kia, th́ ghe ấy bị lỗi” [13]
Khoảng từ 1920, chính quyền thuộc địa đă ra một “bài
chỉ” ghe ở các tỉnh Nam Bộ, quy định ghe mỗi tỉnh có một con số riêng. Bài chỉ
ấy lấy chữ đầu của 20 tỉnh ở Nam Kỳ ghép thành vần, rồi đặt số:
“Gia, Châu, Hà,
Rạch, Trà, Sa, Bến,
Long, Tân, Sóc, Thủ, Tây, Biên,
Mỹ, Bà, Chợ, Vĩnh, G̣, Cần, Bạc “ [14]
Như vậy ghe Gia Định mang số 1, ghe Bến Tre có số 7,
ghe Bà Rịa th́ số 15…
Hoặc như ghe của các vùng cũng sơn màu nơi mũi ghe để
phân biệt nhau
Thuyền Bắc Nam lui
tới
Ghe đen mũi, ghe vàng mũi ra vào coi
loà nước
Người Đông Tây qua lại
Tàu xanh mang, tàu đỏ mang, hàng hóa
chất ngất
(Ngô Nhân Tịnh)
Để đề pḥng nạn cướp bóc diễn ra trên sông nước, chính
quyền phong kiến đă có quy định rơ ghe thuyền phải có “đăng kiểm” để dễ bề kiểm
soát:”ghe thuyền lớn nhỏ trong hạt, quan nha sở tại phải buộc khai báo tên họ
làm số sách tra cứu rơ ràng, rồi khắc chữ đóng nơi đầu thuyền, người nào trái
lệnh bị tội, và làm bộ tịch ghe thuyền để lưu chiếu. Từ đó người chủ bị cướp
nhận thấy được kẻ cướp, chỉ tên ra tố cáo, truy nă, mà bọn ác ôn khiếp phục yên
lặng cả” [15]
Trước năm 1954, ở Nam Bộ các phương tiện máy móc c̣n
ít, ghe xuồng đi lại chủ yếu là bơi, chèo. Ở các thị trấn, thị tứ đông dân cư
th́ có đ̣ đạp, đ̣ dọc đưa rước khách đi lại. Đ̣ đạp, đ̣ dọc th́ đi theo chiều
dài, khách có thể thuê bao trọn chuyến.
Gọi là “đ̣ đạp”
v́ chiếc ghe thông thường di động trêm mặt nước do bơi, hoặc chèo bằng tay, nay
được thay bằng động tác chân Những người phu đạp trên những tấm ván ghép trên
một cái ṿng tṛn như chiếc guồng quay nước. Một chiếc đ̣ có 4 người đạp. Đ̣ đạp
có tốc độ tương đương với đ̣ chèo bằng tay, nhưng hành khách thích đi loại đ̣
này hơn v́ nó ít cḥng chành. Chiếc đ̣ thường được thiết kế thành 2 tầng. Tầng
dưới được che kín, chủ yếu để chở hàng hóa. Tầng trên thông thoáng, dùng để
thường ngoạn cảnh sông nước. Đ̣ đạp thường chở khách ở cự ly gần, khoảng
10-20km, nước ít chảy, không có sóng to. Nghệ sĩ cải lương Tư Trang (tức Trần
Hữu Trang) từng có thời gian làm phu đ̣ chở khách từ Hương Điểm đi tỉnh lỵ Bến
Tre. [16]
Người miệt quê cấy hái xong, mùa màng nhàn rỗi hay có
chuyện cần sắm sửa mua bán là đi đ̣ dọc về thị xă. Con đ̣ dài hơn mười lăm
thước, chở được bốn năm chục người. Đi đ̣ dọc là ta có thể h́nh dung được phần
nào cuộc sống nơi miền sông nước. Đ̣ dọc chạy rất đúng giờ, nhiều nhà xem đ̣
chạy qua là có thể đoán được giờ giấc một cách chính xác. Khách đi đ̣ cũng dễ
thân quen nhau, cứ chuyện tṛ rôm rả suốt cả hành tŕnh.Ven sông, mỗi nhà đều
làm cho ḿnh một bến nước nho nhỏ. Đó là nơi đón đ̣, nơi tắm rửa, giặt giũ, nơi
hẹn ḥ của đôi lứa.
Có thể nói, ghe xuồng có mặt khắp mọi nơi, theo từng
bước chân của người dân Nam Bộ, trên mọi “địa h́nh” của miền sông nước: từ nơi
thị tứ đô hội cho đến chốn kinh cùng, từ đầu nguồn đến cuối băi, nơi giáp nước,
ngă ba sông, dọc ven biển…Người ta dùng ghe xuồng đi mua bán, thu hoạch nông
sản, đánh bắt tôm cá trên sông cho đến đi thăm người quen, giỗ chạp, ma chay,
cưới xin…Ngày nay tận dụng ưu thế đó, những con “thuyền văn hóa”, “thuyền bệnh
viện” đă hoạt động khá hiệu quả nơi miền sông rạch này.
Một phương thức sinh hoạt kinh tế nhưng lại mang đậm
dấu ấn của văn minh sông nước, đó là chợ nổi của miền Tây Nam Bộ. Người dân miền
Tây đă tạo cho ḿnh một phong cách sinh hoạt riêng, phù hợp với điều kiện đặc
thù của tự nhiên nơi đây. Gần như ở các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đều có chợ
nổi: Ngă Bảy, Cái Răng, Phong Điền (Cần Thơ), An Hữu (Tiền Giang), Ngă Năm, Trà
Men (Sóc Trăng), Năm Căn, phường 8, Thới B́nh (Cà Mau), Long Xuyên (An Giang),
Sa Đéc (Đồng Tháp)…Trong đó vang tiếng cả nước là chợ nổi Ngă Bảy (Phụng Hiệp,
Cần Thơ) và chợ nổi Ngă Năm (Thạnh Trị, Sóc Trăng) trên kênh Quản Lộ. Ở chợ nổi
bán người ta mua bán đủ thứ, từ trái cây, rau thịt, cá…cho đến hàng tiêu dùng,
bán cả đồ ăn thức uống, gần như không thiếu thứ ǵ. Chợ nổi có lối tiếp thị trên
trời, theo kiểu “treo ǵ bán nấy”. Trước mỗi ghe có một cây sào cao, trên đó
treo những hàng hóa cần bán (dân địa phương gọi là bẹo). Chợ nổi cũng
có những chợ dạng “chuyên doanh”. Chợ nổi An Hữu (Cái Bè, Tiền Giang) là chợ
trái cây đầu mối lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long. Chợ Trà Men (Sóc Trăng) nổi
tiếng với các mặt hàng lọp, lờ, lu, khạp…Chợ nổi thực sự là bức tranh đầy màu
sắc của châu thổ sông Cửu Long.
Ghe xuồng
trong đời sống văn hóa
Ghe xuồng ở Nam Bộ cũng được phản ánh khá đậm nét
trong nhiều từ điển. Chúng tôi thử làm một thống kê (chưa đầy đủ) để thấy được
sự đa dạng, phong phú trong cách thức đặt tên theo chức năng, theo địa phương,
theo chất liệu cấu tạo, theo màu sắc của loại h́nh phương tiện giao thông đặc
biệt này.
Đại
Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh
Của ghi 28 tên ghe: ghe bầu, ghe trường đà, ghe cửa, ghe bản lồng, ghe bất măn,
ghe vạch (ghe mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe chài, ghe lườn, ghe ngo, ghe vợi,
ghe giàn, ghe câu, ghe lưới, ghe be, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe đuôi tôm then
trỗ, ghe hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến, ghe vẹm, ghe khoái,
ghe hàng bổ. [17]
Dictionnaire
Vietnamien – Francais
(1898) của Génibrel thống kê được 38 tên ghe: ghe bầu, ghe biển, ghe
cửa, ghe nốc (ghe giă), ghe mành, ghe nang, ghe lồng, ghe lồng chón, ghe bốc
chài, ghe trẹt, ghe giàn, ghe rập đáy, ghe cui, ghe cá, ghe rớ, ghe lườn, ghe
vạch (mũi vạch, mỏ vạch), ghe câu, ghe rỗi, ghe đ̣, ghe hầu, ghe lê, ghe son,
ghe vẹm, ghe ô, ghe hồng, ghe quyển, ghe diều, ghe mui ống, ghe giă vọng, ghe
sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe bản lồng, ghe khoái, ghe sai, ghe đại trường đà, ghe
chiến, ghe nan. [18]Trong
đó có một số loại ghe không phải của (hoặc chỉ có) ở Nam Bộ như: ghe nốc, ghe
mành, ghe nang, ghe giă vọng, ghe bầu, ghe đại trường đà.





Dictionnaire
Annamite-Chinois-Français (Việt-Hán-Pháp tự-vị) / Gustave Hue. 1937.
(1937) của Gustave Hue chép 40 tên ghe: ghe bản lồng, ghe bầu, ghe bể (ghe
biển), ghe bốc chài, ghe cá (ghe câu), ghe cui (ghe be), ghe cửa, ghe chiến, ghe
diểu, ghe đại trường đà, ghe đinh, ghe đ̣, ghe guộc, ghe giă, ghe vọng, ghe
giàn, ghe hầu, ghe hồng, ghe khoái, ghe lê (ghe hầu), ghe lồng, ghe chón, ghe
lườn, ghe mành (ghe biển), ghe mui ống, ghe nan, ghe nốc (ghe biển), ghe ngo,
ghe quyển, ghe rập đẩy (ghe be), ghe rỗi, ghe rớ, ghe sai, ghe son, ghe sơn đỏ,
ghe tiểu điếu, ghe trẹt, ghe vạch (ghe mỏ vạch, mũi vạch), ghe vụn (ghe son),
ghe nan. [19]
Dictionnaire
Vietnamien Chinois Francais (1957) của E.
Gouin cho ta 39 tên ghe: ghe bầu, ghe be, ghe bể (ghe biển), ghe bốc chài, ghe
cá, ghe câu, ghe cui, ghe cửa, ghe chiến, ghe chiều, ghe giàn, ghe diểu, ghe đại
trường đà, ghe đinh, ghe đ̣, ghe giă, ghe giă vọng, ghe hầu, ghe kẻ, ghe khoái,
ghe lê (ghe hầu), ghe lồng, ghe lườn, ghe mành, ghe mui ống, ghe nan, ghe nốc,
ghe ngo, ghe quyển, ghe ô, ghe rỗi, ghe rớ, ghe sai, ghe son, ghe sơn đỏ, ghe
tiểu điếu, ghe trẹt, ghe vạch, ghe vẹm (ghe son). [20]
Tự
vị tiếng Việt miền Nam (1993) của Vương
Hồng Sển cung cấp 32 tên ghe: ghe bầu, ghe trường đà, ghe nạn, ghe cửa, ghe bản
lồng (ghe lồng), ghe bất măn, ghe vạch (ghe mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe
lườn, ghe be, ghe ngo, ghe vợi, ghe đ̣, ghe giàn, ghe câu, ghe lưới, ghe cá, ghe
lái ngoài, ghe đuôi tôm then trỗ, ghe hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe
chiến, ghe điệu, ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng bổ, ghe bè, ghe chài. [21]
Từ
điển phương ngữ Nam Bộ (1994) do Nguyễn
Văn Ái chủ biên đếm được 15 tên ghe: ghe bản lồng, ghe bầu, ghe bầu nóc, ghe be,
ghe cà vom, ghe chài, ghe chài lớn, ghe cui, ghe cửa, ghe giàn, ghe hầu, ghe
lồng, ghe lườn, ghe mỏ vạch, ghe ngo. [22]
Đây là số tên ghe được ghi nhận ít trong
số 5 cuốn từ điển trên và ít hơn trong thực tế rất nhiều.
Các từ ngữ liên quan đến chiếc ghe cũng được thể hiện
khá rơ, chỉ riêng trong Đại Nam quốc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của đă
có: ở ghe, đi ghe, về ghe, ra ghe, lui ghe, xuống ghe, coi ghe, đậu ghe, ghe
guộc. Về tục ngữ th́ có câu: Ghe không lái như gái không chồng. [23]
Xung quanh chuyện ghe xuồng ở Nam Bộ đă để lại dấu ấn
qua nhiều địa danh, chẳng hạn như: Nhà Bè, Cái Bè, Vũng Tàu, Rạch Tàu…
Nhà Bè vốn gắn liền với truyền thuyết Vơ Thủ Hoằng
(đọc trại thành Huồng), nhà giàu có, thường cho vay nặng lăi. Sau sợ bị trừng
phạt nơi âm phủ bèn phát tích làm lành, dựng nhà bè nơi ngă ba sông, trên để gạo
củi mắm muối cho khách lỡ đường. Truyền thuyết Thủ Huồng với môtip “du địa phủ”
này, nay hăy c̣n để lại dấu vết ở chùa Chúc Đảo (thường gọi chùa Sau hay chùa
Thủ Huồng), xă Hiệp Hoà, thành phố Biên Hoà.
Nhà Bè
nước chảy chia hai
Ai về Gia Định
Đồng Nai th́ về
Trên sông La Ngà (Đồng Nai) và Long Xuyên (An Giang)
trên sông Hậu nay là những nhà bè nuôi cá nổi tiếng, mà con cá basa đă đi vào
thị trường nước Mỹ.
Theo Sơn Nam trong Bến Nghé xưa th́ Cái Bè
(Tiền Giang) vốn do ghe bè, một loại ghe lớn, tụ tập mua bán lên
Campuchia mà thành tên đất. Cái trong từ cổ chỉ sông rạch.
Vũng Tàu (Bà Rịa- Vũng Tàu), Rạch Tàu (Cà Mau) là
những nơi tàu thuyền thường trú đậu.
Trong diễn xướng dân gian Nam Bộ, ḥ sông nước chiếm
một vị trí quan trọng. Liên quan đến việc đi lại trên sông nước có thể kể ra như
những điệu ḥ như: ḥ chèo ghe, ḥ mái đoản, ḥ mái nh́, ḥ mái trường, ḥ
khoan, ḥ mái ố, ḥ Đồng Tháp, ḥ Sông Hậu…Có những câu tư duy nghệ thuật dân
gian đạt đến mức táo bạo:
Nước Tân Ba
chảy qua Vàm Cú
Thấy em chèo cặp
vú muốn hun
Gắn với ghe xuồng c̣n có nhiều bài vè mô tả lại các
hoạt động sản xuất, mua bán: Vè đánh lưới, Vè đi biển, Vè lái rỗi, Vè đường
sông Lục Tỉnh, Vè thương hồ…
Đua ghe là một tṛ chơi giải trí mang tính cộng đồng
không thể thiếu được ở miền Tây Nam Bộ. Hoạt động này thường diễn ra vào dịp
Tết, dịp lễ, cúng đ́nh…Người ta thường tổ chức đua ghe giữa các thôn ấp với
nhau. Ghe đua của người Việt là loại ghe be, ghe trảng lườn. Trong khi đó ghe
đua của người Khơme lại là ghe ngo.
C. Lemire trong tác phẩm Cochinchine Francaise et
Royaume de Cambodge (1884) của ḿnh đă mô tả lại cảnh đua thuyền độc mộc
đầy náo nhiệt trên sông Sài G̣n vào cuối thế kỷ XIX. Đây chính là những cuộc đua
ghe ngo hào hứng mà ta thường thấy trong các dịp lễ Óoc-om-bóc ở Sóc Trăng. Đọc
lại đoạn trích này để thấy được sức sống mănh liệt của một loại h́nh sinh hoạt
văn hóa dân gian đậm đà bản sắc của dân tộc Khơme, mà đă có một thời người ta
phục hồi lại ở thành phố Hồ Chí Minh những năm đầu 90 của thế kỷ trước.”Mỗi năm
ở Sài G̣n vào ngày 15 tháng tám có đua ghe kỳ lạ. Trên sông Sài G̣n bề ngang từ
ba đến bốn trăm mét vắt ngang qua thành phố, khoảng 20 ghe độc mộc dài, thon có
treo cờ: ở đằng đầu sừng sững một đầu rồng bằng cáctông với sừng và râu dài bằng
dây sắt, ở đằng sau là h́nh cái đuôi của con quái vật. Các thuyền độc mộc này
hẹp đến nỗi hai người chỉ có thể ngồi đối diện nhau trên một cái băng nhỏ (…).
Ba chục người ngồi ép sát nhau trên các ghe mảnh mai này và chờ lệnh. Một phát
đại bác từ soái hạm được bắn đi, chuông trống đáp lại và các ghe lướt trên sóng
thi đua chèo nhanh. Các bạn tưởng đâu là những con rắn, rất quái đản lướt trên
nước. Các tay chèo ḿnh trần đến thắt lưng, màu da hơi xanh xanh màu ô liu, bắp
thịt nổi vồng; (...)Âm thanh của các nhạc cụ xa lạ này, những tiếng la thét này
làm người ta liên tưởng đến các cuộc tấn công của giặc cướp rất thường xảy ra
ngày trước trên các sông lớn này (…) [24]
Một khía cạnh văn hóa liên quan đến ghe xuồng đó là
tín ngưỡng xung quanh loại phương tiện giao thông thuỷ đặc biệt này. Người đóng
ghe th́ có lễ cúng ghim lô, cúng khai nhăn, cúng hạ thuỷ, đại khái cầu cho mọi
việc được hanh thông. Người sử dụng ghe th́ cúng ở đầu mũi ghe cầu cho mua mai
bán đắt (dân thương hồ), đánh bắt được nhiều cá tôm (nghề hạ bạc), chở khách
được an toàn (dân tàu đ̣)…
Đặc biệt mắt ghe là một biểu tượng văn hóa cần được giải mă. Mắt ghe từ
TP.Hồ Chí Minh đến Kiên Giang cùng chung đặc điểm là mắt tṛn, tṛng đen, nhăn
trắng, mang ghe được trang trí nhiều kiểu dáng khác nhau với đường viền trắng
chạy xung quanh.
Nh́n chung, sự khác biệt về h́nh dáng, màu sắc, đường nét của các con
mắt thuyền ở từng vùng miền là do thị hiếu thẩm mỹ, tŕnh độ tay nghề của những
người thợ đóng ghe thuyền và phong cách này cũng thường mang tính ổn định. Mắt
ghe thuyền được trang trí lại sau một thời gian sử dụng.
Lời kết
Ghe xuồng ở Nam Bộ vừa là một loại phương tiện giao vô cùng hữu hiệu,
nó gắn bó vô cùng mật thiết với cư dân vùng sông nước, lại vừa là ẩn chứa bên
trong những giá trị văn hóa vô cùng độc đáo. Mai đây, ở vùng châu thổ này,
phương tiện khoa học kỹ thuật có phát triển đến mấy đi nữa, đời sống người dân
có khấm khá hơn lên, nhưng chắc rằng vai tṛ của “người bạn đường” này là không
thể thay thế được.

Đ̣ Dạp
Ông
Nguyễn-Thanh-Lợi viết về “đ̣ đạp” như sau
Trước năm 1954, ở Nam Bộ các phương tiện máy móc c̣n
ít, ghe xuồng đi lại chủ yếu là bơi, chèo. Ở các thị trấn, thị tứ đông dân cư
th́ có đ̣ đạp, đ̣ dọc đưa rước khách đi lại. Đ̣ đạp, đ̣ dọc th́ đi theo chiều
dài, khách có thể thuê bao trọn chuyến.
Gọi là
“đ̣ đạp” v́ chiếc
ghe thông thường di động trêm mặt nước do bơi, hoặc chèo bằng tay, nay được thay
bằng động tác chân Những người phu đạp trên những tấm ván ghép trên một cái ṿng
tṛn như chiếc guồng quay nước. Một chiếc đ̣ có 4 người đạp. Đ̣ đạp có tốc độ
tương đương với đ̣ chèo bằng tay, nhưng hành khách thích đi loại đ̣ này hơn v́
nó ít cḥng chành. Chiếc đ̣ thường được thiết kế thành 2 tầng. Tầng dưới được
che kín, chủ yếu để chở hàng hóa. Tầng trên thông thoáng, dùng để thường ngoạn
cảnh sông nước. Đ̣ đạp thường chở khách ở cự ly gần, khoảng 10-20km, nước ít
chảy, không có sóng to. Nghệ sĩ cải lương Tư Trang (tức Trần Hữu Trang) từng có
thời gian làm phu đ̣ chở khách từ Hương Điểm đi tỉnh lỵ Bến Tre. [16]
Trong bài
"Nấm mộ ông Thầy Quảng", BS Trần Ngươn Phiêu (Amarillo, Texas, Tết Ất
Dậu, 2005) viết:
Ông Nguyễn Sanh
Sắc thường đến Cao Lănh để xem mạch, hốt thuốc cho các gia đ́nh nghèo ở đó. Các
gia đ́nh khá giả khác thường chọn các Thầy có gia sản ở địa phương và ít khi mời
ông Thầy Quảng. Vào thời đó và cả cho đến cuối thập niên 1940, sự giao dịch giữa
Sa Đéc, Cao Lănh thường được thực hiện bằng loại
đ̣ đạp. Đây là một
loại đ̣ khá lớn, chuyên chở được trên hai mươi hành khách và hàng hóa. Đ̣ di
chuyển do sức đẩy của một bánh xe nước. Bạn đạp đ̣ ít nhất cũng phải đến bốn
người. Chợ Cồn là bến đ̣ quan trọng. Ông Nguyễn Sanh Huy thường lên, xuống đ̣ ở
bến này và thường nhân dịp, ghé đàm đạo, đánh cờ với ông ngoại của ông Lang.
Thêm nữa, mỗi khi đi Cao Lănh, ông Thầy Quảng thường chỉ ở một vài ngày và khi
về thường đem các loại dược thảo ông t́m hái được ở Cao Lănh, giao lại nhờ ông
ngoại của ông Lang phơi sấy để làm thuốc cho thân chủ nghèo. Một hôm, ông ngoại
của ông Lang nhận được thơ do chủ
đ̣ đạp đem về từ Cao
Lănh. Ngươi đem thơ đă lơ đăng quên đưa thơ khi cập bến Chợ Cồn nên đă đưa trễ
khi về đến bến chót ở chợ Sa Đéc. Trong thơ, người cho ông Nguyễn Sanh Huy tá
túc mỗi khi ông đến Cao Lănh, báo cho ông Ngọ biết tin ông Huy đang bị bịnh
nặng. V́ không biết dùng xe đạp, ông ngoại của ông Lang đă đi bộ đến Cao Lănh để
thăm bạn. Vào chiều tối, lúc ông đến nơi th́ ông Thầy Quảng đă chết rồi, thân
ḿnh c̣n ấm!
Trăm năm sẽ nhớ
bến sông này
Phà Cần Thơ
Thuở xưa, khi cha ông ta đi mở đất phương Nam; vùng miền
Tây, bên kia sông Hậu c̣n nê địa śnh lầy. Trấn Di - tức vùng Cần Thơ bây giờ -
chưa phát triển, c̣n thuộc tỉnh Vĩnh Long (một trong Nam kỳ lục tỉnh). Từ miệt
trên xuống, muốn qua bên đó, người ta đi ghe bầu, ghe chài hoặc từ những bến đ̣
ngang vắng vẻ ở Trà Ôn, Cái Vồn, Tân Quới vượt sông bằng những chuyến
đ̣ đạp, đ̣ chèo của
người dân ngụ cư ở địa phương. Khi Pháp chiếm 3 tỉnh miền Tây, để khai thác tài
nguyên thuộc địa, cùng lúc với việc khơi ḍng, đào kênh, họ mở rộng hệ thống
giao thông toàn Nam kỳ lục tỉnh; trong đó con lộ huyết mạch nối từ Sài G̣n về
miền Tây được khởi công xây dựng.
Cầu Cần Thơ khánh thành nối liền đôi
bờ sông Hậu, rút ngắn khoảng cách miền Tây Nam bộ với cả nước. Vai tṛ lịch sử
của bến phà Hậu Giang sẽ không c̣n... Song, nhiều người không khỏi chạnh ḷng
khi một h́nh ảnh đẹp, hoạt động cũ sắp mất đi.
NGUYỄN SAN Trăm năm sẽ nhớ bến sông này. Báo Cần Thơ. Thứ
bảy, 23/01/2010 21 giờ 16 GMT+7
Dưới đây là
trích trong sách "Chữ Đôi Việt Nam"
của các Ông Nguyễn Bá Trang và Trịnh Ḥa Hiệp.
Ghe > ăn, bầu, be, bể, biển, buồm, buôn, cá,
câu, cộ, cui, cửa, chài, đ̣, guộc, hàng, hầu, khẩm, lá, lưới, lường, mành, máy,
mê, muối, nan, ngo, ô, phen, rối, thuyền, trẹt.
Ghe < bạn, bến, cập, chèo, chét, chiếc, ch́m, choác,
chống, chờ, chủ, chuyến, dẫn, dưới, đâm, đi, đỏi, đón, đóng, đưa, đục, gịng,
khám khoang, lật, lui, lườn,mạn, neo, sảm, thui, trét, ụ, xảm.
Thuyền > bài, bầu, bà, biển, buồm, buôn, câu,
cóc,con, cụ, cước, chài, chủ, đ̣, đội, khẩm, lơn, lườn , mành, mẹ, nan, nhân,
phó, quyền, reo, rồng, t́nh, thúng, trưởng, viên.
Thuyền < be, binh, bơi, buông, con, cỡi, chét,
chiếc, chiến, ch́m, choang, chống, chuyến, ḍng, du, dưới, đắm, đóng, đua, đục,
đuôi, ghe, giong, gịng, hải, hạm, hỏa, hội, khoái, khoang, lái, lật, lâu, lên,
long, ḷng, luân, lui, mạn, một, mui, mũi, neo, nóc, ngư, pháo, phi, sảm, sạp,
sườn, tàu, thả, thợ, thương, trám, trạo, trẩy, trét, úp, ụp, xạc, xuống, xương.
ĐẠI
NAM QUỐC ÂM TỰ VỊ - 1895
PAULUS HUỲNH TỊNH CỦA
Nguyễn khắc Xuyên giới thiệu để kỷ niệm 100 năm (1895-1995)
(trích trang Văn Hóa, giáo xứ Việt Nam tại Paris)
Lời
giới thiệu
Đại
Nam Quấc Âm Tự Vị là quyển từ
điển
Việt
đầu
tiên và do một nguời Việt
đầu
tiên soạn, ấn hành năm
1895 và 1896, cách chúng ta ngày nay 100 năm,
1895-1995. Truớc
đây,
có mấy nguời viết từ điển : Việt Bồ La của Đắc Lộ 1651, Việt La
của Taberd 1838, Việt Pháp của Legrand de la Liraye, 1868, Việt La
của Theurel-Taberd 1877, La Việt của Ravier 1880, Pháp Việt của
Truong Vinh Kư 1887, Việt Pháp của Génibrel 1893. Từ điển của Húnh
Tịnh Của là từ
điển
VN, từ điển tiếng Việt
đầu
tiên do nguời Việt Nam soạn.
...
Chúng tôi (lời
Ông
Nguyễn khắc Xuyên)
kể ra một số để chúng ta cùng thưởng
thức‘‘một
chút bách khoa’’.
- Bánh.
Bánh ḅ, bánh thuẫn,
bánh nhăn, bánh gầng,
bánh tráng (bánh đa), bánh
giầy, bánh ếch (cũng gọi
là bánh ít), giống h́nh con ếch.
Bánh tét, (bánh tết), nói chữ là
thiên bỉnh nếu hiểu nghĩa
thiên viên địa phương (trời tṛn
đất vuông). Bánh cúng,
bánh chưn, giống h́nh cái chân
cũng gọi là địa bỉnh. Bánh
ú, cũng gọi là giác bỉnh, có ba
góc. Bánh hỏi, bánh ép có sợi
mà ráo rê hay là ráo hỏi, mượn chữ
hỏi mà đặt tên.
- Ghe.
Ghe cộ, ghe guộc, ghe bầu, ghe
trường, ghe nan, ghe cửa, ghe bản
lồng, hay ghe lồng, ghe bất mần, ghe
vạch hay ghe mỏ vạch, ghe cui, ghe
trẹt, ghe chài, ghe lườn, hay ghe
độc mộc thuyền, ghe ngo, ghe vợi,
ghe đ̣, ghe giàn, ghe câu, ghe lưới,
ghe be, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe
đuôi tôm then trổi, ghe hầu, ghe lê,
ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến,
ghe vẹm, ghe khoái, ghe hàng bỗ.
Từ điển Việt Nam xưa và nay
sachxua.net/forum/index.php?action=printpage;topic=930.0
Từ điển là loại sách công cụ thường
được dùng để tra cứu khi người ta gặp một khúc mắc nào đấy.
Thường th́ gặp cái từ nào khó th́
tra từ điển, thấy từ điển giải thích thế th́ tin là thế. Họa hoằn gặp từ mà ḿnh
cũng biết sơ sơ hoặc c̣n nghi ngờ mới t́m hiểu tiếp. Nếu từ điển giải nghĩa sai
th́ rất là tai hại. Chính v́ thế mới cần người có hiểu biết và giới chuyên môn
đánh giá, phê b́nh, đính chính... để người sử dụng định h́nh được cái thứ mà
ḿnh sắp sử dụng nó như thế nào. Tức là đọc kỹ hướng dẫn sử dụng trước khi dùng
thôi mà.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Từ_điển
Từ điển (hay Tự điển)
là danh sách các
từ,
ngữ được sắp xếp thành các
từ vị chuẩn (lemma). Một từ điển thông thường cung cấp các giải nghĩa
các từ ngữ đó hoặc các từ ngữ tương đương trong một hay nhiều thứ tiếng khác.
Ngoài ra c̣n có thể có thêm thông tin về cách
phát âm, các chú ư
ngữ pháp, các dạng
biến thể của từ, lịch sử hay
từ nguyên, cách sử dụng hay các câu ví dụ,
trích dẫn. Đối với các ngôn ngữ sử dụng
kư tự Latin th́ các từ có thể được sắp xếp theo thứ tự chữ cái. Đối với các
ngôn ngữ tại
Đông Á sử dụng kư tự là đơn vị ngôn ngữ có nghĩa th́ từ điển được gọi là
tự điển. Thông thường từ điển được tŕnh bày dưới dạng sách, ngày nay từ
điển c̣n được số hóa và cung cấp dưới dạng
phần mềm máy tính hay truy cập trực tuyến trên
web, trên
tŕnh nhắn tin nhanh, hay có trong các thiết bị số cá nhân như
PDA,
điện thoại...
Từ điển là nơi giải
thích thông tin về ngôn ngữ của con người một cách dễ hiểu và khách quan nhất.
Từ điển có nhiệm vụ, nhất là
từ điển bách khoa toàn thư, giúp người xem hiểu và vận dụng (sử dụng) chính
xác một từ, ngữ,
thuật ngữ,
thành ngữ,
khái niệm,
phạm trù hay một vấn đề cụ thể trong đời sống xă hội con người. Từ nhiệm vụ
này, từ điển đă được h́nh thành dưới nhiều dạng thức tồn tại khác nhau, góp phần
giải quyết (hay đáp ứng) một hoặc nhiều nhu cầu khác nhau trong đời sống xă hội
loài người. Đến nay, đă có các dạng thức từ điển như: từ điển bách khoa toàn
thư,
từ điển triết học,
từ điển thành ngữ,
từ điển song ngữ,
từ điển thần học,
từ điển tiếng lóng,
từ điển ngôn ngữ phụ nữ...
Sử dụng từ điển thế nào cho hợp lư
(Nguồn:
KênhSinhViên.Net)
Tham gia
ngày : 20/04/08 http://forum.vietnamlearning.vn/archive/index.php/t-5555.html
Tên Thật : Cao Đức Anh
Nghề nghiệp : Sinh Viên
Trường đang học : Khoa học tự nhiên
Bạn đang
theo học một ngôn ngữ mới vậy mà có quá nhiều thử thách xảy đến? Các hiện tượng
ngữ pháp, ngữ âm, các tập quán ngôn ngữ như một bức tường chắn trên bước đường
của bạn? Làm thế nào để hiểu được thông điệp từ mỗi nguồn tin trong ngôn ngữ đó
nếu như bạn chưa có một vốn từ nhất định?
Đă đến lúc bạn cần đến một người đồng hành thân thuộc_một cuốn từ
điển sẽ giúp ích cho bạn thật nhiều. Với một cuốn từ điển bạn sẽ làm được những
ǵ?
Có rất nhiều lư do khiến bạn phải cần đến :
1) Tra nghĩa của từ bạn gặp hoặc nghe thấy
2) T́m nghĩa tương ứng của từ trong tiếng Việt
Sưu tầm
3) Kiểm tra cách viết của từ
4) Kiểm tra số của danh từ, cách của động từ
5) T́m các cấu trúc ngữ pháp liên quan tới từ
6) T́m từ đồng nghĩa, trái nghĩa
7) Tra cứu trật tự từ
8) Kiểm tra từ loại
9) Nắm được cách dùng từ đó trong văn nói
10) Nắm được cách sắp xếp của từ đó
11) Xem các ví dụ mà từ đó góp mặt trong ngôn ngữ giao tiếp.
GHE XUỒNG Ở
NAM BỘ
* Nguyễn Thanh Lợi
http://www.vanhoahoc.edu.vn/index.php?option=com_content&task=view&id=1629&Itemid=74
11/04/2010
(Bài đă đăng trên Tạp chí Văn
hóa dân gian, số 1, 2005)
Ghe xuồng ở Nam Bộ có vị
trí rất quan trọng trong việc giao thông đường thuỷ, ở một địa bàn mà mạng lưới
sông ng̣i, kênh rach chằng chịt. Việc sử dụng ghe xuồng làm phương tiện đi lại,
vận chuyển đă trở thành nét độc đáo trong đời sống của cư dân vùng này. Có thể
nói, cư dân miệt sông nước ra đến ngơ là gần như phải đi xuồng. Ngay từ thưở đi
khai hoang của cha ông ta, việc đi lại bằng đường thuỷ vẫn tiện lợi và an toàn
nhất. Sách Gia Định thành thông chí mô tả:”Ở Gia Định chỗ nào cũng có
ghe thuyền, hoặc dùng thuyền làm nhà ở hoặc đi chợ, hay để đi thăm người thân
thích, hoặc chở gạo củi đi buôn bán, rất tiện lợi, mà ghe thuyền chật sông ngày
đêm qua lại, sỏng xuồng liên tiếp” [1]
1.Đặc điểm phân loại
Ghe xuồng ở Nam Bộ rất đa dạng, phong phú với nhiều
kiểu loại, tên gọi khác nhau. Căn cứ vào đặc điểm sản xuất, chức năng sử dụng và
phương thức hoạt động ta có thể tạm phân chia thành những loại khác nhau.
Huỳnh Tịnh Của
định nghĩa về xuồng như sau: "Ghe nhỏ, ghe làm chơn, thường ḍng theo
ghe lớn” [2]
. Về xuồng, ta thấy có các loại phổ biến
như xuồng ba lá, xuồng năm lá, tam bản, xuồng vỏ g̣n, xuồng độc mộc, xuồng chèo,
xuồng máy…
Xuồng ba lá có
chiều dài trung b́nh 4m, rộng 1m, sức chở từ 4-6 người. Xuồng làm bằng ba tấm
ván gỗ dài ghép lại, các đường nối được trét bằng nhựa chai, mũi và lái đều
nhọn. Dùng sào nạng và bơi chèo để đi lại. Riêng Cần Thơ có xuồng 5 lá.
Xuồng tam bản
giống như ghe câu, nhưng lớn hơn, có 4 bơi chèo, dùng để chuyên chở nhẹ. Có loại
thon dài, lại thêm mui ống, dáng đẹp. Số lượng tấm ván be không chỉ có 3 mà có
thể là 5, 7, hoặc 9 tấm. Các điền chủ hạng nhỏ và vừa thường sử dụng để đi lại
trên sông rạch. Ở Vĩnh Long, xuồng tam bản c̣n dùng để đi câu tôm, câu rổi hoặc
dùng làm xuồng cào tôm cá. Tam bản xuất xứ từ tiếng Hoa “xam pản”,
người Pháp phiên âm thành “sampan”.
Ghe tam bản, xuồng bơi, xuồng chèo ở Cần Thơ đều là
hai chèo, ba chèo, bốn chèo. Không phải một một chèo lái, một chèo mũi như ở các
vùng khác.
Xuồng vở g̣n
(giống vỏ trái g̣n) kích thước nhỏ, kết cấu đơn giản (giàn đà, cong và ván be),
kiểu dáng gọn nhẹ, chủ yếu để đi lại, chuyên chở, trao đổi, buôn bán.
Xuồng độc mộc
(ghe lườn) do người Khơme làm bằng cách chẻ dọc thân cây thốt nốt, khoét rỗng
ruột hoặc mua xuồng độc mộc thân gỗ sao, sến ở Campu chia và Lào.
Xuồng câu tôm:
giống kiểu kiểu ghe độc mộc của người Khơme dùng giăng câu thả lưới ở ven sông
cạn rạch nhỏ.
Xuồng bơi (2 mái
chèo) lớn hơn xuồng tam bản.
Xuồng máy gắn
máy nổ và chân vịt như xuồng máy đuôi tôm là loại phương tiện rất “cơ động”, phổ
biến ở vùng sông nước này, nhất là trong giới thương hồ.
Về ghe dùng để vận chuyển hàng hóa thường là
những chiếc ghe có kích thước lớn, sức chở nặng, đi được đường dài.
Ghe bầu là loại
ghe lớn nhất, mũi và lái nhọn, bụng ph́nh to, có tải trọng tương đối lớn, chạy
buồm (từ 1 đến 3 buồm), lướt sóng tốt và đi nhanh, có nhiều chèo để đi sông và
đi biển dài ngày.thường dùng đi đường biển. Loại ghe bầu lớn thường gọi là
ghe trường đà.Ghe bầu (Prau) bắt nguồn từ tiếng Mă Lai, do người Việt trong
quá tŕnh Nam tiến tiếp thu được của người Chăm.Trước năm 1945, hàng năm các lái
buôn lớn từ miền Trung chở cá, mắm cá ṃi, chủ yếu là nước mắm cá cơm của vùng
Phan Thiết vào bán trong Nam, rồi mua gạo thóc chở ra bằng loại ghe này.
Ghe cửa: nhỏ,
mũi nhọn, nhảy sóng tốt, chạy buồm vững vàng; có thể ra vào các cửa sông dễ
dàng, hay chở hàng đi men theo bờ biển.
Ghe lồng (hay
ghe bản lồng): loại ghe lớn, đầu mũi dài, có mui che mưa nắng, ḷng ghe
được ngăn thành từng khoang nhỏ để chứa các loại hàng hóa khác nhau. Loại ghe
này dùng vận chuyển hàng hóa đi dọc bờ biển.
Ghe hàng bo là
loại ghe lồng nhỏ, đi đường ngắn trong nội địa
Ghe giàn : có
kích thước khá lớn, hai bên hông trổ cánh cao để chở được nhiều hàng hóa
Ghe be không mui
hoặc có mui nhỏ chệch về phần lái khoảng 1/4 chiều dài của ghe, có thêm hai ghe
bên sườn để tăng thêm sức chở.
Ghe chài: to và
chở được nhiều nhất, có mui rất kiên cố, gồm nhiều mảnh gỗ ghép lại, có hai
tầng. Ghe được chia làm hai phần, phần đầu chứa hàng hóa, phần sau là chỗ nghỉ
cho người đi ghe. Một mui rời phía sau pḥng lái dùng làm nơi tắm rửa, nấu cơm.
Ghe có sức chở từ 150-200 tấn, loại ghe chài Nam Vang chở được đến 300 tấn. Ghe
chài thường có cả chục người chèo với kiểu chèo “neo” ngược chứ không như kiểu
chèo ghe b́nh thường. Về sau, người ta dùng tàu kéo ghe chài. Ghe dùng cho người
đi buôn bán xa, dài ngày và sống trên sông nước. Thường dùng chở lúa gạo, than
củi.
“Chài” xuất xứ từ tiếng “Pok chài” của người Triều
Châu, Pok: nhiều, chài: tải, ghe chài là loại ghe có sức tải
lớn.
Đại
Nam quốc âm tự vị (1895) của Huỳnh Tịnh
Của ghi 28 tên ghe: ghe bầu, ghe trường đà, ghe cửa, ghe bản lồng, ghe bất măn,
ghe vạch (ghe mỏ vạch), ghe cui, ghe trẹt, ghe chài, ghe lườn, ghe ngo, ghe vợi,
ghe giàn, ghe câu, ghe lưới, ghe be, ghe cá, ghe lái ngoài, ghe đuôi tôm then
trỗ, ghe hầu, ghe lê, ghe ô, ghe son, ghe sai, ghe chiến, ghe vẹm, ghe khoái,
ghe hàng bổ. [17]
Dictionnaire
Vietnamien – Francais
(1898) của Génibrel thống kê được 38 tên ghe: ghe bầu, ghe biển, ghe
cửa, ghe nốc (ghe giă), ghe mành, ghe nang, ghe lồng, ghe lồng chón, ghe bốc
chài, ghe trẹt, ghe giàn, ghe rập đáy, ghe cui, ghe cá, ghe rớ, ghe lườn, ghe
vạch (mũi vạch, mỏ vạch), ghe câu, ghe rỗi, ghe đ̣, ghe hầu, ghe lê, ghe son,
ghe vẹm, ghe ô, ghe hồng, ghe quyển, ghe diều, ghe mui ống, ghe giă vọng, ghe
sơn đỏ, ghe tiểu điếu, ghe bản lồng, ghe khoái, ghe sai, ghe đại trường đà, ghe
chiến, ghe nan. [18]Trong
đó có một số loại ghe không phải của (hoặc chỉ có) ở Nam Bộ như: ghe nốc, ghe
mành, ghe nang, ghe giă vọng, ghe bầu, ghe đại trường đà.
Từ điển tiếng Việt đầu tiên

 
Cuốn từ điển tiếng Việt đầu tiên được ghi nhận cho đến giờ
là cuốn từ điển tam ngữ Việt – Bồ – La (Tiếng Việt – Bồ Đào Nha – Latin) với tên
Latin là
Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum đă được
Alexandre de Rhodes biên soạn sau khi ông ở Việt Nam 12 năm và được in tại Roma
vào năm 1651 lúc Alexandre ở châu Âu.
Từ điển Việt-Bồ-La với 8000 mục từ đă lấy ư tưởng từ hai
tác phẩm đă mất tích trước đó: một cuốn từ điển Việt-Bồ của Gasparal de Amoral
và một cuốn từ điển Bồ-Việt của Antoine Barbosa.
http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn
Tra từ "Thuyền" trong Bách Khoa Toàn Thư Việt Nam, ta t́m
thấy những mục sau:
Một số chữ Hán
liên-hệ tới thuyền
Bộ 137
舟http://nguyendu.com.free.fr/langues/&h137.htm
舟 chu (6n)
-
1 : Thuyền. Các cái như thuyền, bè dùng qua sông qua
nước đều gọi là chu. Nguyễn Du
阮攸 : Thiên
địa thiên chu phù tự diệp, Văn chương tàn tức nhược như ti
天地扁舟浮以葉,
文章殘息弱如絲
(Chu hành tức sự
舟行即事) Chiếc thuyền con như chiếc lá nổi giữa đất trời, Hơi tàn văn
chương yếu ớt như tơ. Bùi Giáng dịch thơ : Thuyền con chiếc lá giữa trời,
thơ văn tiếng thở như lời tơ than.
-
2 : Cái đài đựng chén.
-
3 : Đeo.
舡 hang
(9n)
舢 san (9n)
舩 thuyền
(10n)
航 hàng
(10n)
-
1 : Thuyền, hai chiếc thuyền cùng sang gọi là hàng.
-
2 : Vượt qua. Như hàng hải
航海 vượt bể,
hàng lộ
航路
đường nước, v.v.
-
3 : Ken thuyền làm cầu nổi sang sông.
舫 phảng, phang
(10n)
般 bàn, ban,
bát (10n)
-
1 : Quanh co. Như bàn du
般遊 chơi quanh
măi, bàn hoàn
般桓 quấn quít không nỡ rời.
-
2 : Tải đi. Như bàn vận
般運 vận tải.
-
3 : Một âm là ban. Về. Như ban sư
般師 đem quân
về.
-
4 : Bực. Như nhất ban
一般 một bực
như nhau, giá ban
這般 bực ấy,
v.v.
-
5 : Lại một âm là bát. Bát nhă
般若 dịch âm
chữ Phạn, nghĩa là trí tuệ, trí tuệ thanh tịnh.
舲 linh
(11n)
舳 trục
(11n)
舴 trách
(11n)
舵 đà (11n)
舶 bạc
(11n)
舷 huyền
(11n)
舸 khả
(11n)
-
1 : Thuyền mành, thuyền to. Vương Bột
王勃 : Khả
hạm mê tân, thanh tước hoàng long chi trục
舸艦迷津,青雀黃龍之舳
Thuyền bè chật bến sông, đuôi thuyền vẽ chim sẻ xanh, rồng vàng.
船 thuyền
(11n)
-
1 : Cái thuyền, chữ để gọi chung các thuyền. Nguyễn
Trăi 阮薦 :
Cố sơn tạc dạ triền thanh mộng, Nguyệt măn B́nh Than tửu măn thuyền
故山昨夜纏清夢,月滿平灘酒滿船
(Mạn hứng
漫興)
Núi cũ đêm qua vương vấn mộng, Trăng ngập đầy sông (B́nh Than), rượu ngập
thuyền.
艁 tạo
(13n)
艄 sao
(13n)
艇 đĩnh
(13n)
艋 mănh
(13n)
艘 tao, sưu
(16n)
艟 đồng
(18n)
艣 lỗ (19n)
艤 nghĩ
(19n)
艦 hạm
(20n)
艨 mông
(20n)
艫 lô (22n)
http://nguyendu.com.free.fr/langues/&h137.htm
Về lai lịch ba tên gọi Tàu, Trung Hoa, Trung Quốc (Nguồn:
T/c Ngôn ngữ & Đời sống, số 10/2004, tr 42. Post 00:00:00 Ngày 09/05/2007)
Trước hết nói về cái tên Tàu. Có ư kiến cho rằng sở dĩ gọi
là Tàu v́ người Hán đến nước ta buổi đầu bằng đường thuỷ với cái tàu, từ đó ta
gọi là người Tàu, nước họ gọi là nước Tàu. Tôi cho rằng không phải thế, tuy
nhiên tôi cũng chưa tự giải đáp được một cách có lí.
Giảng Tàu như vậy là
không ổn v́ trong chữ Hán và chữ Việt thuở xưa không có chữ Tàu để chỉ một
phương tiện đi biển, đi sông. Xưa kia, có chữ Hán rồi người Việt ta mượn dùng là
chữ thuyền. Đọc truyện cổ (như truyện Tam quốc chẳng hạn), tôi chỉ
thấy nói đến chữ thuyền (chiến thuyền, lâu thuyền). Chữ Tàu măi về
sau mới xuất hiện và từ điển giảng là phương tiện đi trên mặt nước chạy bằng
động cơ, tàu thuỷ. Về sau chữ này được dùng rộng răi cho cả phương tiện có động
cơ đi trên đường ray trên mặt đất và tàu hoả, đi trên đường không là
tàu bay.
Mặt khác, cũng nên khẳng định
rằng người phương Bắc tràn vào nước ta buổi đầu là bằng đường bộ, dọc theo biên
giới hai nước. Theo truyền thuyết th́ giặc Ân đời Hùng Vương thứ 6, theo lịch sử
th́ giặc Tần do thiệu uư Đồ Thư tràn sang rồi bị nhân dân ta đánh bại ở thế kỉ 3
trước công nguyên.http://vusta.vn/vusta/news_detail.asp?id=20396
Đào Văn Thái
Gánh vàng đi đổ sông Ngô:
Gánh vàng là đi gánh của cải đi.
Sông Ngô là sông ở bên nước
Ngô, tức nước Tàu.
Gánh vàng đi đổ sông Ngô
nghĩa đen là gánh của cải đi đổ xuống sông bên Tàu.
Nghĩa bóng là đem tiền bạc làm
giàu cho người ngoại quốc.
Đại ư câu này khuyên người ta
không nên dùng hàng hóa nước ngoài, để tiền bạc, của cải khỏi lọt ra ngoại
quốc. Sở dĩ có câu tục ngữ này là v́ ngày xưa, cha ông ta thích dùng đồ Tàu (Ngô),
bất luận cái ǵ cũng phải mua cho được đồ Tàu mới chịu, thành ra tiền của dốc
vào túi của người Tàu tất cả. Để tiền bạc lọt cả vào túi người Tàu, như vậy có
khác ǵ gánh vàng đi đổ sông Ngô.
http://www.xuanha.net/Cadao-Tucngu/G-tucnguluocgiai.html
Chiếc Sơng: Thuyền
nan nhỡ.
Chiếc
Sơng lật úp.
Trong bài "NHỮNG SAI LẦM TRONG QUYỂN
TỰ ĐIỂN GÉNIBREL", Ông
NGUYỄN QUẢNG TUÂN
đă viết:
Quyển TỰ ĐIỂN VIỆT - PHÁP(1) của giáo sĩ
Génibrel từ trước đến nay vẫn được coi là một quyển tự điển có giá trị, đáng tin
cậy để tham khảo.
J.F.M. Génibrel đă dựa vào quyển Tự điển Việt
Pháp(2) của giáo sĩ Caspar để soạn ra quyển Tự điển mới này nên mới ghi trên
b́a sách là “In lần thứ hai”, tuy rằng sách mới in lần thứ nhất.
Theo như Lời mở đầu gởi các độc giả th́ ông đă
biên soạn trong 14 năm liền (từ năm 1884 đến năm 1898) với sự giúp đỡ của một
nhà nho Việt Nam.
Khác với các quyển Tự điển của Alexandre de Rhodes
(1651), của Taberd (1838), của Bonet (1889), quyển Tự điển của Génibrel có thêm
các thí dụ trích trong các tác phẩm văn học như Truyện Kiều và truyện
Lục Vân Tiên.
Giáo sĩ Génibrel đă dịch các câu thí dụ ấy sang tiếng
Pháp. Nay căn cứ vào các câu dịch ấy chúng ta có thể biết được tŕnh độ hiểu
tiếng Việt của ông ra sao.
Điều làm chúng tôi hết sức ngạc nhiên là ông đă hiểu
sai và dịch sai quá nhiều câu thí dụ.
Chữ THUYỀN trong câu 1991:
Thuyền trà cạn nước hồng mai.
Génibrel đă hiểu sai chữ “thuyền” là chiếc thuyền,
chiếc ghe nên đă dịch “thuyền trà” là Barque de thé Cad. Thé ère.
Chắc ông đă theo Trương Vĩnh Kư v́ trong quyển Kim
Vân Kiều Truyện, in năm 1875, Trương Vĩnh Kư đă giảng: “Thuyền trà là chén
trà có dĩa đài làm cong cong, con Thuư Kiều pha trà hồng mai mà đăi”.
Đúng ra chữ “thuyền” hoặc “thiền” đă được phiên âm từ
chữ Phạn dayana là thiền na mà ta quen gọi tắt là “thiền”. Thiền đă được dùng để
chỉ cảnh chùa v́ đạo Phật lấy sự thanh tĩnh mà xét tỏ chân lư làm tôn chỉ.
Vậy “thiền trà” hoặc “thuyền trà” phải hiểu là chén
trà của nhà chùa.
dchph. What Makes Vietnamese So Chinese? An Introduction to
Sinitic-Vietnamese Studies - DRAFT-
http://vny2k.net/vny2k/SiniticVietnamese2.htm
Huỳnh Minh, G̣ Công
xưa và nay, Cánh Bằng xb, Sài G̣n, 1969.
Huỳnh Văn Thảo, Phan
Ngọc Đằng chủ biên, sđd, tr.81-82.
|